LỜI NÓI ĐẦUQuốc ngữ nước ta sở dĩ được phong phú như ngày nay là vì người nước ta tiêm nhiễm Hán học đã lâu đời. Bao nhiêu tiếng thuộc về tinh thần đều thái dụng chữ Hán cả. Thông thường truyền khẩu lần lữa quen tai, kẻ nói người nghe thành ra chữ sáo. Gây ra một thứ Việt Hán thành ngữ. Đó là một điểm quan hệ trên lịch sử văn hóa nước nhà.
Nếu không có một bản nào để tra cứu thì lâu ngày “tam sao thất bản” tránh sao khỏi sai lầm. Tác giả biên ra cuốn này, đem những thành ngữ ấy xếp theo thứ tự A, B, C ... chua âm nghĩa rõ ràng. Đang lúc quốc gia tiến hành công cuộc phổ thông giáo dục, xin đem ra cống hiến đồng bào, may ra có bổ ích chút nào chăng.
Đời còn tiến hóa nữa, tư tưởng mới còn phát triển nữa, thì từ ngữ mới còn phải xuất hiện để ứng dụng với việc đời, sẽ lần lượt tăng bổ sau.
Xuất bản lần đầu này, Tôi cũng chưa dám chắc là hoàn thiện hoặc còn sót lẻ gì, xin chất chính cùng các nhà bác nhã.
NÔNG SƠN NGUYỄN CAN MỘNG
(Sở Thông Tin Bắc Phần Việt Nam duyệt y ngày 29 – 4 – 1949)
MẤY ĐIỀU NÊN CHÚ Ý:
Danh từ thì đánh dấu (Z).
Động từ thì đánh dấu (Đ).
Tính từ thì đánh dấu (T).
Trạng từ thì đánh dấu (TR).
Còn như liên từ, giới từ, phó từ, tán thán từ và trợ ngữ thì quy nạp cả vào Hư tự đánh dấu (H).
Một chữ mà có nhiều nghĩa, có nhiều cách dùng thì quy nạp riêng mà đặt thí dụ.
Một chữ mà chữ Hán viết ra hai lối, hoặc Quốc ngữ đọc ra hai âm thì chua ngay vào chỗ ấy để dễ nhận.
Từ hay tự nào đã nói ở trên mà ở dưới nhắc lại thì bên Quốc ngữ đánh dấu - - ; bên chữ Hán đánh dấu / cho khỏi phiền phức.
Tên người, tên đất thì không biên, vì không có nghĩa gì, nếu biên vào thì không sao xiết được chỉ trừ ra mấy chữ hiệu cũ nước nhà mà có điển có thì mới biên vào mà thôi.